Luật Các Tổ Chức Tín Dụng (Sửa Đổi) – Vai Trò Của Thừa Phát Lại Trong Hoạt Động Thu Giữ Tài Sản Bảo Đảm

27.6.25

Ngày 27/6/2025, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội chính thức thông qua. Với kinh nghiệm hành nghề chuyên sâu, Văn phòng Thừa phát lại Bến Thành nhận thấy đây là kết quả của một hành trình pháp lý quan trọng về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động xử lý nợ xấu.

Để hiểu rõ ý nghĩa của luật mới, cần nhìn lại lịch sử của quyền thu giữ tài sản tại Việt Nam.

Tổng Quan Quá Trình Pháp Lý Về Quyền Thu Giữ Tài Sản Bảo Đảm

1. Giai đoạn 2006: Quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP

Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm là văn bản pháp lý quan trọng giai đoạn đầu. Cụ thể, Điều 63 của Nghị định này đã trao cho bên nhận bảo đảm (Tổ chức tín dụng - TCTD) quyền được thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý trong trường hợp bên vay không hợp tác bàn giao. Mặc dù quy định này ở cấp Nghị định, có thể phát sinh xung đột với các văn bản luật và gây khó khăn trên thực tế, đây vẫn là cơ sở pháp lý quan trọng để các ngân hàng chủ động xử lý nợ xấu. Thực tiễn cho thấy, các vụ thu giữ có sự tham gia của Thừa phát lại thường diễn ra thuận lợi, giúp các ngân hàng xử lý nợ xấu mà không cần qua quy trình tố tụng phức tạp.

2. Giai đoạn 2015: Ảnh hưởng từ Bộ luật Dân sự 2015

Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2015 đã tạo ra những thay đổi lớn. Với hiệu lực pháp lý cao hơn, Bộ luật này quy định việc xử lý tài sản phải thông qua phương thức khởi kiện tại Tòa án hoặc do các bên tự thỏa thuận. Nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu được đề cao, khiến quy định về quyền tự ý thu giữ tại Nghị định 163 không còn phù hợp. Điều này đã làm chậm lại đáng kể công việc thu giữ tài sản bảo đảm, tạo ra một “điểm chặn”, có nguy cơ gây ùn ứ nợ xấu và đẩy các TCTD vào con đường tố tụng kéo dài, tốn kém.

3. Giai đoạn 2017: Giải pháp tình thế từ Nghị quyết 42/2017/QH14

Để giải quyết tình hình trên, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 như một giải pháp “thí điểm” đặc thù. Nghị quyết này đã tái lập “quyền thu giữ” cho TCTD, tạo hành lang pháp lý để xử lý nợ xấu mà không cần qua tố tụng. Tuy nhiên, đây vẫn là một cơ chế mang tính tạm thời, thí điểm. Nghị quyết cũng đặt ra các điều kiện chặt chẽ để tránh lạm dụng quyền lực và bảo vệ bên vay , ví dụ như việc thu giữ phải được quy định trong hợp đồng bảo đảm và khoản nợ xấu phải phát sinh trước ngày 15/8/2017.

4. Giai đoạn 2022-2023: Gia hạn và Chờ đợi

Trước khi Nghị quyết 42 hết hạn, nhận thấy sự cần thiết của cơ chế này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 63/2022/QH15, gia hạn hiệu lực đến hết ngày 31/12/2023. Giai đoạn này cho thấy sự thừa nhận của nhà làm luật về tính hiệu quả của chính sách và là thời gian chờ đợi một giải pháp pháp lý bền vững hơn.

5. Giai đoạn 2025: Luật hóa chính thức

Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) được thông qua ngày 27/6/2025 đã chính thức luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm. Đây không còn là giải pháp tạm thời mà đã trở thành một quy định pháp luật ổn định, vững chắc để các TCTD thực hiện.

Vai Trò Của Thừa Phát Lại và Công Cụ Vi Bằng Trong Bối Cảnh Mới

Việc luật hóa đặt ra yêu cầu về một quy trình thu giữ phải chặt chẽ, minh bạch và đúng pháp luật. Bất kỳ sai sót nào trong thủ tục đều có thể dẫn đến khiếu nại, khiếu kiện, gây cản trở cho việc xử lý tài sản. Do đó, việc tạo lập chứng cứ chứng minh quy trình thu giữ tuân thủ đúng quy định là công việc thiết yếu đối với các TCTD.

Văn phòng Thừa phát lại Bến Thành, qua quá trình nghiên cứu và thực tiễn hoạt động, nhận thấy việc lập Vi bằng là một công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo an toàn, dự phòng rủi ro tranh chấp trong quá trình thu giữ tài sản. Chúng tôi khuyến nghị các TCTD nên cân nhắc sử dụng các dạng Vi bằng sau:

1. Vi bằng ghi nhận thỏa thuận bổ sung về quyền thu giữ:

·       Tình huống pháp lý: Nhiều hợp đồng thế chấp ký trước đây không có điều khoản rõ ràng về quyền thu giữ của TCTD. Luật mới đã mở ra cơ chế linh hoạt tại điểm b khoản 2 Điều 198a, cho phép các bên thỏa thuận lại bằng một văn bản khác mà không cần sửa đổi hợp đồng thế chấp đã công chứng.

·      Vai trò của Thừa phát lại: Lập vi bằng ghi nhận toàn bộ buổi làm việc giữa TCTD và bên thế chấp. Vi bằng sẽ ghi nhận sự tự nguyện của các bên khi ký kết biên bản làm việc/thỏa thuận, trong đó có nội dung đồng ý cho phép TCTD thu giữ tài sản nếu vi phạm nghĩa vụ trả nợ.

2. Vi bằng ghi nhận việc thông báo thu giữ:

·       Tình huống pháp lý: Luật yêu cầu TCTD phải thông báo cho các bên liên quan trước khi thu giữ. Việc chứng minh đã thông báo hợp lệ có thể gặp khó khăn, đặc biệt khi bên thế chấp trốn tránh, không hợp tác.

·      Vai trò của Thừa phát lại: Lập vi bằng ghi nhận hành vi giao/gửi thông báo trực tiếp, qua email hoặc dán niêm yết công khai. Vi bằng này là chứng cứ khách quan, chứng minh TCTD đã hoàn thành nghĩa vụ thông báo theo quy định, bất kể bên thế chấp có tiếp nhận hay không.

Một Thừa phát lại của Văn phòng Thừa phát lại Bến Thành đang chứng kiến, lập vi bằng việc khách hàng thông báo thu hồi mặt bằng

3. Vi bằng ghi nhận việc đăng tải thông tin trên Internet:

·       Tình huống pháp lý: Luật yêu cầu bên thu giữ phải đăng tải thông tin về việc thu giữ trên trang thông tin điện tử của mình trong một thời hạn nhất định trước khi tiến hành. Dữ liệu trên website có thể bị quản trị viên thay đổi, chỉnh sửa ngày đăng. Ví dụ, để thu giữ bất động sản ngày 16/10/2025, thông tin phải được đăng tải trước ngày 30/9/2025 nhưng quản trị viên hoàn toàn có thể thực đăng tải vào ngày 15/10/2025 rồi sửa thành 30/9/2025. Điều này tạo ra rủi ro là khách hàng, cơ quan chức năng phản bác về thời gian đăng tải thông tin thu giữ.

·       Vai trò của Thừa phát lại: Lập vi bằng ghi nhận nội dung và thời điểm đăng tải thông tin trên website để làm bằng chứng TCTD đã tuân thủ nghĩa vụ công khai thông tin.

4. Vi bằng ghi nhận hiện trạng tài sản:

·       Tình huống pháp lý: Có rủi ro phát sinh tranh chấp về việc hư hỏng hoặc mất mát tài sản (cả tài sản thế chấp và tài sản khác) sau khi thu giữ.

·       Vai trò của Thừa phát lại: Lập vi bằng chi tiết, kèm hình ảnh, video mô tả tình trạng tài sản tại thời điểm trước khi tiếp quản để làm chứng cứ đối chất. Trong thực tiễn hành nghề, Văn phòng chúng tôi đã ghi nhận trường hợp điển hình vào năm 2016 tại Quận Gò Vấp (TP.HCM). Một TCTD tiến hành thu giữ một căn nhà bị khóa trái. Sau đó, chủ nhà tố cáo bị mất tiền, vàng. Tuy nhiên, video từ vi bằng do Thừa phát lại ghi nhận toàn bộ quá trình từ lúc mở khóa cho đến khi rời khỏi nhà đã chứng minh tại thời điểm kiểm tra, không có tài sản như chủ nhà trình báo. Quy trình lập vi bằng chặt chẽ, không gián đoạn đã giúp chứng minh sự trong sạch của TCTD và Thừa phát lại. Vụ việc sau đó đã được cơ quan công an kết luận không có cơ sở để xác định TCTD lấy tài sản.

5. Vi bằng ghi nhận toàn bộ diễn biến quá trình thu giữ:

·       Tình huống pháp lý: Đây là loại vi bằng cần thiết và thường xuyên được yêu cầu nhất trong các giai đoạn trước đây.

·       Vai trò của Thừa phát lại: Ghi nhận lại toàn bộ quá trình thu giữ bằng văn bản, hình ảnh, video một cách khách quan, bao gồm thành phần tham gia, các hành vi, thái độ của các bên cho đến khi tài sản được niêm phong. Vi bằng là bằng chứng xác thực quá trình thu giữ diễn ra minh bạch, đúng luật.

Đề Xuất Và Khuyến Nghị Từ Văn Phòng Thừa Phát Lại Bến Thành

Việc luật hóa quyền thu giữ tài sản là một bước tiến pháp lý cần thiết. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả và công bằng, các TCTD cần xem việc tạo lập chứng cứ thông qua Vi bằng là một công cụ quản trị rủi ro pháp lý hữu hiệu, chứ không phải một thủ tục phiền hà. Việc sử dụng Vi bằng không chỉ giúp TCTD “chắc tay” hơn trong quy trình xử lý nợ mà còn khẳng định sự chuyên nghiệp và thượng tôn pháp luật của tổ chức.

Để được tư vấn chi tiết và hỗ trợ các giải pháp pháp lý an toàn, hiệu quả, Quý Tổ chức vui lòng liên hệ trực tiếp với Văn phòng Thừa phát lại Bến Thành.

TPL Đức Hoài

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN

Quý khách hàng chỉ cần gọi điện hoặc nhắn tin đến hotline 86 525 1138, các Thừa phát lại dày dặn kinh nghiệm sẽ lập tức hỗ trợ

Đặt lịch tư vấn

Bạn đang cần được tư vấn ?